Trái phiếu doanh nghiệp hiện nay được xem như hoạt động tín dụng, chứ chưa thể hiện rõ đặc điểm cơ bản của nó là một giấy tờ có giá và có thể thu hút nhiều bên cùng tham gia mua.
Trái phiếu doanh nghiệp hiện chiếm tỷ trọng lớn trong hoạt động tín dụng của các ngân hàng. Tuy nhiên, hình thức này lại đang được thực hiện trong một môi trường kém chặt chẽ hơn hẳn so với tín dụng truyền thống.
Tổng lượng phát hành trái phiếu doanh nghiệp trong quý III đạt không dưới 19.900 tỷ đồng. Con số này chiếm khoảng 29% lượng tín dụng tăng ròng trong quý III của toàn ngành ngân hàng. Tỷ lệ này được ước tính theo con số tăng trưởng tín dụng do Ngân hàng Nhà nước công bố. Theo đó, cuối năm 2012, dư nợ tín dụng toàn ngành ngân hàng là 2.753.000 tỷ đồng; đến cuối tháng 6 là 2.843.000 tỷ đồng (tăng trưởng 3,3%) và đến cuối tháng 9 là khoảng 2.913.000 tỷ đồng (tăng trưởng 5,8%).
Số dư nợ 19.900 tỷ đồng trái phiếu doanh nghiệp này là tổng 7 đợt phát hành trái phiếu doanh nghiệp tính trong quý III năm nay. Nếu tính từ đầu năm, số vốn huy động từ trái phiếu doanh nghiệp là 34.000 tỷ đồng. Bên mua trong các đợt phát hành này hầu hết là các ngân hàng lớn và vừa. Nghĩa là nếu không có 7 khoản vay này, tăng trưởng tín dụng đến cuối tháng 9 của ngành ngân hàng sẽ chỉ khoảng 5,1%, thay vì con số 5,8%.
Điểm lạ là trái phiếu doanh nghiệp hiện nay đang được sử dụng không giống chức năng thuần túy. Đặc điểm của công cụ này là loại giấy tờ có giá, nên có thể mua đi bán lại dễ dàng trên thị trường. Thứ hai, đợt phát hành trái phiếu doanh nghiệp có thể thu hút nhiều bên cùng tham gia mua. Tuy nhiên, cả hai đặc điểm này lại không thấy rõ trong thị trường hiện tại. Giao dịch trái phiếu doanh nghiệp trên thị trường thứ cấp trong quý III đạt chưa đầy 700 tỷ đồng. Các nhà đầu tư chủ yếu nắm trái phiếu đến khi đáo hạn. Tổ chức phát hành rất hiếm khi niêm yết trái phiếu doanh nghiệp của mình và hầu như không muốn công khai rộng rãi đợt phát hành.
|
Trên 50% đợt phát hành trái phiếu doanh nghiệp từ đầu năm đến nay được thực hiện giữa đúng một ngân hàng và một doanh nghiệp.
|
Trong khi đó, trên 50% đợt phát hành trái phiếu doanh nghiệp từ đầu năm đến nay được thực hiện giữa đúng một ngân hàng và một doanh nghiệp, theo các nguồn tin liên quan trực tiếp đến các đợt phát hành này chia sẻ.
“Nói về trái phiếu doanh nghiệp hiện nay, có thể thấy, đây là hoạt động tín dụng được khoác áo trái phiếu doanh nghiệp”, Giám đốc đầu tư của một ngân hàng quốc doanh nói. “Trên thị trường thứ cấp không có sự mua đi bán lại giữa các nhà đầu tư, không có tham chiếu chuẩn hay hệ thống đánh giá cho công cụ đầu tư này”, ông giải thích.
Trong một số đợt phát hành, trái phiếu doanh nghiệp được sử dụng làm công cụ tái cấu trúc nợ giữa ngân hàng và doanh nghiệp nhiều hơn là huy động vốn mới để sản xuất, bởi đặc thù của trái phiếu doanh nghiệp là thủ tục để giải ngân, ủy thác đầu tư đơn giản hơn nhiều so với quy trình thẩm định, giám sát của các khoản tín dụng truyền thống. Thực tế này có thể là nguyên nhân khiến phần lớn các đợt phát hành trái phiếu doanh nghiệp đều “kín tiếng”. Có 3/7 tổ chức phát hành trong quý III đã yêu cầu được bảo mật đợt phát hành của mình. Nhiều chuyên gia nhận định, không nên nhìn vào lượng phát hành trái phiếu doanh nghiệp khủng để đánh giá sự cải thiện của hoạt động tín dụng, nhất là khi tính minh bạch trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp còn rất yếu ớt hiện nay.
Nếu ở thị trường trái phiếu doanh nghiệp phát triển, các tổ chức phát hành luôn được đánh giá tín nhiệm chặt chẽ bởi các hãng định mức uy tín làm cơ sở cho các giao dịch, thì ở thị trường trong nước, các nhà đầu tư vẫn chấp nhận việc doanh nghiệp không có xếp hạng tín nhiệm, còn thông tin mục đích sử dụng vốn trong các đợt phát hành trái phiếu doanh nghiệp cũng thường rất sơ sài
Nhận xét về vấn đề này, ông Đỗ Ngọc Quỳnh, Tổng thư ký Hiệp hội Thị trường trái phiếu (VBMA) chia sẻ, nên nhìn trái phiếu doanh nghiệp như một công cụ đầu tư có phân khúc nhà đầu tư riêng. Cụ thể, trái phiếu doanh nghiệp rủi ro cao hơn các công cụ khác sẽ có phân khúc riêng là những nhà đầu tư chấp nhận rủi ro cao và có khả năng quản trị rủi ro đó.
Ông Quỳnh cho rằng, thị trường trái phiếu doanh nghiệp đang dần được xây dựng, như việc Bộ Tài chính đang lấy ý kiến cho dự thảo Nghị định thành lập doanh nghiệp định mức tín nhiệm tại Việt Nam, hay giao VBMA thực hiện trung tâm thông tin trái phiếu.
“Mỗi công cụ tài chính đều phải trải qua những bước phát triển. Trái phiếu doanh nghiệp tạo ra một nền tảng giao dịch thanh khoản hơn rất nhiều so với tín dụng, việc chuyển từ tín dụng truyền thống sang phát hành trái phiếu doanh nghiệp hay phát hành giấy tờ có giá chính là một bước phát triển của thị trường này”, ông Quỳnh nói.
Trong lộ trình phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam đến 2020 của Bộ Tài chính, 3 mục tiêu cụ thể được đặt ra là nghiên cứu xây dựng hệ thống thông tin về phát hành và giao dịch trái phiếu doanh nghiệp; xây dựng đường cong lãi suất trái phiếu doanh nghiệp; khuyến khích các doanh nghiệp đa dạng hóa các loại hình trái phiếu doanh nghiệp… Tuy nhiên, với thực trạng thị trường như hiện nay, bao giờ những mục tiêu Bộ Tài chính đặt ra sẽ thành hiện thực là một câu hỏi khó.
Theo Đầu tư chứng khoán