Nắm bắt tâm lý sính ngoại của người dân, nhiều doanh nghiệp Việt ra nước ngoài đặt sản xuất sản phẩm của mình, rồi nhập về với tư cách nhà phân phối độc quyền để có lợi nhuận cao hơn.
Một loạt nhãn hiệu nhập khẩu từ Hàn Quốc, Malaysia, Singapore… như Dr Kool, Dr Clean, Queenie… thực chất thuộc quyền sở hữu của một doanh nghiệp Việt là Công ty cổ phần Thương mại Sản xuất và Dịch vụ Sao Nam. Các sản phẩm này có mặt ở hầu hết các hệ thống siêu thị như BigC, Fivimart, Metro… Theo đánh giá của siêu thị, ở nhiều thời điểm, chúng khá hút khách và còn thống lĩnh thị trường trong nước.
Ông Phạm Công Sinh, Giám đốc Công ty Sao Nam cho biết, hình thức kinh doanh của doanh nghiệp là gửi mẫu mã, thiết kế và thương hiệu sang nước ngoài, thuê nhà máy ở các nước gia công theo đơn đặt hàng rồi nhập về dưới hình thức nhà phân phối độc quyền. Khi đó, hàng hóa nghiễm nhiên mang xuất xứ ngoại, về Việt Nam sẽ được dán nhãn phụ hướng dẫn sử dụng bằng tiếng Việt.
Tương tự, một số mặt hàng thuốc bảo vệ thực vật cũng được các doanh nghiệp đưa sang nước ngoài sản xuất. Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn - Nguyễn Thị Xuân Thu cảnh báo hiện nay nhiều doanh nghiệp đặt sản xuất các mặt hàng thuốc bảo vệ thực vật ở nước ngoài rồi vận chuyển về Việt Nam như: thuốc bảo quản thực vật, thuốc chín ép trái cây... Theo một số chuyên gia, nguyên nhân của tình trạng trên là lợi nhuận từ những mặt hàng này quá lớn, doanh nghiệp tránh sản xuất "chui" trong nước có nguy cơ bị phạt vi phạm chất lượng.
|
Nhiều sản phẩm mang mác ngoại, nhưng thực chất thuộc sở hữu của doanh nghiệp Việt. Ảnh: NLĐ
|
Ông Vũ Vinh Phú, Chủ tịch Hiệp hội Siêu thị Hà Nội cho biết, hình thức này sẽ khiến doanh nghiệp phải trả lương công nhân cao hơn, chi phí vận chuyển lớn và chịu thuế nhập khẩu. Nhưng bù lại, họ tận dụng được ưu thế về công nghệ hiện đại, được cung cấp dịch vụ trọn gói, năng suất lao động cao nên giảm được chi phí sản xuất, hạ giá thành. "Nhìn chung, giá những mặt hàng này vẫn cao hơn hàng nội địa. Lý do duy nhất để các doanh nghiệp sang nước ngoài sản xuất là người Việt có tâm lý sính hàng ngoại, nên dù giá cao hơn một chút vẫn bán được hàng, lợi nhuận so sánh vẫn lớn hơn sản xuất trong nước", ông nói.
Tuy nhiên, việc này sẽ khiến sản xuất trong nước bị đe dọa khi hàng hóa mác ngoại ồ ạt vào thị trường và chiếm được cảm tình người tiêu dùng. Ông Phú giải thích: "Khi đó, người tiêu dùng không mua hàng hóa liên doanh trong nước hoặc hàng nội địa nữa, nhà nước sẽ không thu được thuế sản xuất, thuế thu nhập doanh nghiệp, lao động trong nước dư thừa, nguồn vốn nội địa để phát triển kinh tế bị chảy ra nước ngoài".
Theo đánh giá của Tiến sĩ Hoàng Thọ Xuân, Viện Nghiên cứu thương mại - Bộ Công Thương, hoạt động này hoàn toàn không đóng góp gì cho sản xuất, kinh tế trong nước và lợi ích cho người tiêu dùng. Ngược lại, sản xuất nội địa bị thu hẹp và khó sống trước sự cạnh tranh của hàng ngoại, người tiêu dùng phải mua hàng giá cao, mà thực chất giá không đến mức đó nếu sản xuất trong nước.
Thứ trưởng Nguyễn Thị Xuân Thu cho biết việc này còn khiến cơ quan quản lý khó kiểm soát, quản lý các giấy tờ chứng nhận chất lượng sản phẩm và xử lý triệt để khi phát hiện. Tiến sĩ Hoàng Thọ Xuân băn khoăn: "Hàng hóa mang mác nhập ngoại thì rõ ràng Việt Nam không quản lý chất lượng, vấn đề còn chưa rõ là bên nhận gia công có bảo đảm được chất lượng cho sản phẩm hay không".
Cũng theo ông Vũ Vinh Phú, Việt Nam chưa có khung pháp lý điều chỉnh, nên về lý, các doanh nghiệp không phạm luật. Tuy nhiên, vẫn cần xem xét đến việc xây dựng quy định cụ thể để quản lý hình thức kinh doanh này. Trong khi đó, Tiến sĩ Hoàng Thọ Xuân khẳng định: "Trước mắt, hoàn toàn có thể dựa vào những quy định hiện hành như nghị định của Chính phủ về chống buôn lậu và gian lận thương mại để quản lý, kiểm soát chặt những nguồn hàng này về nhãn mác, xuất xứ, bản quyền sở hữu trí tuệ, hoạt động xuất nhập khẩu... Vấn đề là các đơn vị liên quan chưa mạnh tay xử lý".
Theo NLĐ